Phó Xuyên, tự Xuân Phố, người thời Trung Hoa dân quốc. Quê ở xã Đông Quách, huyện Thanh Giang, tỉnh Giang Tây. Thuở bé ông mồ côi cha sớm, mẹ là Nhiếp thái phu nhơn thủ tiết, chịu khổ nuôi dưỡng. Khuyến khích ông học hành cho đến lúc nên người.
Xuân Phố từng nhậm các chức sự như: Huấn khoa viên tại huyện thự Thanh Giang. Cảnh sát trưởng nơi trấn Chu Đàm. Hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu ở Chương Thọ. Ông là người thông minh mẫn tiệp, hằng tham dự các công vụ. Mỗi khi có việc chi khó khăn, hàng quan thân thường mời đến xin ý kiến giải quyết. Nhiếp thái phu nhơn từ lâu đã thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát, và niệm Phật trường trai.
Năm Dân Quốc thứ mười bảy, thái phu nhơn nhiễm bịnh. Ông phát nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ, nhờ đó không thuốc mà bịnh tự lành. Tháng chín năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931), Xuân Phố mới đến Phổ Đà để hoàn nguyện. Khi ông chí thành lễ động Phạm Âm, cảm đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tướng mặc áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành dương liễu. Ông lại cầu Bồ Tát gia bị cho biết đời trước. Thấy tiền thân mình là một vị tăng tu hạnh đầu đà, y phục thô sơ lam lũ.
Tỉnh ngộ trần gian là cõi tạm
Do duyên sự đó, Xuân Phố tỉnh ngộ. Biết việc luân hồi không phải hư huyền, chí xuất trần càng tha thiết. Ông nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu cho tham yết ngài Ấn Quang và Đức Sum pháp sư nơi chùa Báo Quốc. Tại đây ông được nghe được pháp yếu của tông Tịnh Độ. Sau khi ấy, ở Hoằng Hóa Xã xuất bản kinh sách chi cũng đều có tặng cho.
Nhờ đó, sự tin hiểu về Phật pháp của ông càng thâm thúy. Lúc bấy giờ Xuân Phố mới quyết định tiến thẳng lên đường đạo, quy y thọ giới Ưu Bà Tắc với Đức Sum pháp sư. Được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây.
Sau khi vào đạo, cư sĩ tín nguyện sâu thiết, tinh tấn niệm Phật không biếng trễ. Năm Dân Quốc thứ hai mươi hai, ông được mời làm chủ giảng ở Niệm Phật Lâm tại Lộc Giang. Dẫn dắt khuyến dụ người tu tiến rất nhiều. Cư sĩ thể chất vốn yếu, thường hay đau bịnh. Lại vì tánh tình liêm khiết nên gia đạo vẫn nghèo, lắm lúc bị nợ nần thiếu hụt. Bởi hàn vi nên tình đời thường sơ bạc. Gia dĩ nghiệp chướng phát hiện, tiếng thị phi chịu cũng rất nhiều.
Ông hằng muốn xuất gia, nhưng vì số vận mãi long đong, nên cơ duyên chưa thuận tiện. Tuy quanh mình gia lụy buộc ràng, nhưng bởi chí nguyện chán cõi trược cầu vãng sanh Cực Lạc tha thiết. Sớm hôm cư sĩ vẫn tinh tấn lễ niệm, dù đau bịnh cũng gắng gượng, không khi nào sơ sót.
Vãng sanh Cực Lạc với thoại tướng cực hiếm
Mùa xuân năm Dân Quốc thứ hai mươi bảy (1938), cư sĩ mộng thấy đức Quán Thế Âm hiện thân, bảo cho biết: Ông sẽ vãng sanh Cực Lạc vào hạ tuần tháng bảy. Đến rằm, sau hội Vu Lan Bồn, cư sĩ ngã bịnh, song vẫn nhứt tâm niệm Phật. Hầu như ông niệm quên bịnh khổ, quên cả uống ăn.
Ngày hai mươi sáu bịnh trở nặng, người nhà thương khóc, cư sĩ cười bảo: “Tôi sẽ vãng sanh Cực Lạc vào ngày vía đức Địa Tạng. Hãy nên vui mừng, đừng bi lụy.” Đến ngày ấy, cư sĩ lại ghế ngồi kiết già, kiết ấn Di Đà định, nhìn chăm chú tượng Phật, rồi an nhiên qua đời. Lúc đó, gương mặt ông bỗng sáng rạng rỡ hơn lúc sanh bình, thân thể lần lần lạnh, chỉ có đỉnh đầu còn nóng.
Sau khi cư sĩ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Vị tọa chủ chùa Thông Tuệ và Đại Nhân pháp sư đồng đến lo liệu cho việc nhập khám. Thấy nhục thân của cư sĩ vẫn ngồi thẳng như lúc bình thời. Trước ngày ấy gió mưa rất lớn, nhưng vào nửa đêm đến khi đốt lửa làm lễ trà tỳ, trời bỗng sáng tạnh. Hương lạ bay ngào ngạt, không phải mùi trầm đàn cũng không phải mùi hoa lan. Từ nóc khám, một đạo bạch quang phóng lên hư không, rồi bay thẳng về Tây.
Lúc ấy vào tiết sơ thu, khí hậu viêm nhiệt, cư sĩ chết đã ba ngày mà thây không hôi. Lại phóng mùi thơm và ánh quang minh, nên ai nấy đều khen lạ. Bấy giờ cư sĩ đã bốn mươi tám tuổi.
Người niệm Phật nhiều mà kẻ Vãng sanh Cực Lạc ít là bởi tại sao?
Thời mạt pháp người niệm Phật nhiều, mà kẻ vãng sanh Cực Lạc lại ít, bởi vì không nguyện thiết tin sâu. Luận về tư cách bậc trượng phu, thầy Mạnh Tử bảo: “Giàu sang không làm cho kiêu dâm, nghèo hèn không làm cho đổi chí, uy vũ không làm cho khuất phục.” Pháp thế gian còn như thế, huống là người theo Phật pháp tu Tịnh Độ, cầu siêu phàm nhập thánh ư?
Như cư sĩ Phó Xuân Phố: nhà nghèo, thân bịnh, mà vẫn nhẫn nại lướt qua, chuyên tâm niệm Phật. Ngàn tiếng khen chê chẳng quản, trăm điều mài bẻ không sờn. Nhờ đó đến khi lâm chung biết ngày giờ trước, điềm lạ hiện bày. Như thế đủ thấy môn Tịnh Độ là bi nguyện triệt để của Như Lai. Nếu chịu quyết tâm, không ai chẳng lên thuyền giải thoát.
Xem gương cư sĩ xong, bỗng cảm khái tự hỏi: Tánh linh nguyên cũng vẫn đồng, siêu đọa bởi sao sai khác? Khúc điệu Cao Sơn vang lại đó, lắng nghe Lưu Thủy mấy ai đây? Nên viết ra khuyên người mà cũng để nhắc mình vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật!
(Niệm Phật Thập Yếu – HT Thiền Tâm)